Thập Bát La Hán là cụm từ đã quá đỗi quen thuộc với nhiều người, Thập Bát La Hán xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày, từ phim ảnh, sách báo, kinh kệ tới các hoạt động khác trong xã hội. Ở các nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, Thập Bát La Hán là hình tướng rất được tôn kính. Vậy Thập Bát La Hán bao gồm những ai, hãy tìm hiểu trong bài viết này nhé.
La hán, hay A la hán (arhat) là những đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni từ lúc bắt đầu thuyết giảng đến khi nhập niết bàn. Theo thuyết của Phật giáo Tiểu thừa (Nam tông) thì khi tu hành, tùy vào cấp độ tín đồ có thể đạt được những quả vị khác nhau, trong đó quả vị cao nhất là “A la hán quả”. Được quả này thì phiền não tận diệt, vạn hạnh viên thành, vĩnh viễn không đầu thai chuyển thế trong vòng sinh tử luân hồi, tức đã đạt được mục tiêu cao nhất là tự giải thoát bản thân. Sang thuyết của Phật giáo Đại thừa (Bắc tông) thì La hán không còn được coi là quả vị cao nhất, viên mãn nhất nữa mà cho rằng người tu hành còn có thể đạt đến Phật quả.
Có rất nhiều vị La hán. Khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, tín ngưỡng La hán càng phát triển với các bộ tượng, tác phẩm hội họa thường khắc hoạ đại diện một nhóm các vị La hán với số lượng khác nhau: 10, 16, 18, hay thậm chí là… 500 vị.
Vậy… có tất cả bao nhiêu vị La hán?
La hán, hay A la hán (arhat) là những đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni từ lúc bắt đầu thuyết giảng đến khi nhập niết bàn. Theo thuyết của Phật giáo Tiểu thừa (Nam tông) thì khi tu hành, tùy vào cấp độ tín đồ có thể đạt được những quả vị khác nhau, trong đó quả vị cao nhất là “A la hán quả”. Được quả này thì phiền não tận diệt, vạn hạnh viên thành, vĩnh viễn không đầu thai chuyển thế trong vòng sinh tử luân hồi, tức đã đạt được mục tiêu cao nhất là tự giải thoát bản thân. Sang thuyết của Phật giáo Đại thừa (Bắc tông) thì La hán không còn được coi là quả vị cao nhất, viên mãn nhất nữa mà cho rằng người tu hành còn có thể đạt đến Phật quả.
Có rất nhiều vị La hán. Khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, tín ngưỡng La hán càng phát triển với các bộ tượng, tác phẩm hội họa thường khắc hoạ đại diện một nhóm các vị La hán với số lượng khác nhau – chỉ là một nhóm đại diện trong số vô vàn các vị A-la-hán. Những tổ hợp tượng La hán có thể xuất hiện bao gồm:
– 10 đại đệ tử Phật: 10 vị tôn giả có ảnh hưởng nhất được người đời sau “chọn lựa” từ danh sách rất nhiều vị đệ tử của Phật Thích Ca (Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, A Na Luật, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Ưu Ba Ly, A Nan Đà, La Hầu La).
– 16 vị La Hán: Bắt đầu xuất hiện từ những bức bích họa cuối đời Đường là tổ hợp 16 vị La hán. Theo Pháp trụ ký, khi Phật Thích Ca sắp nhập Niết bàn đã lệnh cho 16 vị này thường trụ thế gian, tế độ chúng sinh. Họ phải ở lại nhân gian đến khi nào thọ mạng con người sống đến 70,000 tuổi, khi Phật pháp đã hưng thịnh ở nhân gian thì các ngài mới ra đi. Lúc ấy, 16 vị La hán sẽ tập hợp, vận phép thần thông dùng chân hỏa tam muội thiêu đốt nhục thân rồi biến mất giữa hư không.
Tên Hán Việt của các vị này (dựa theo đặc điểm nhận dạng) lần lượt là: Tọa Lộc, Khánh Hỷ, Cử Bát, Thác Tháp, Tĩnh Tọa, Quá Giang, Kỵ Tượng, Tiếu Sư, Khai Tâm, Thám Thủ, Trầm Tư, Khoái Nhĩ, Bố Đại, Ba Tiêu, Trường Mi, Kháng Môn. Nhìn chung các vị này cũng không trùng lặp với danh sách 10 đại đệ tử, chỉ trừ La Hầu La (con trai Phật Thích Ca) cũng chính là Trầm Tư La hán trong danh sách Thập Lục La Hán.
– 18 vị La Hán: là hình tượng phát triển từ cơ sở 16 vị La hán. Có nhiều quan niệm về 2 vị La hán được bổ sung thêm này, nhưng quan niệm phổ biến nhất (được hoàng đế Càn Long khâm định làm chuẩn) cho rằng hai vị này là Hàng Long La hán và Phục Hổ La hán.
– 500 vị La Hán: Những bộ tượng về số lượng La hán khổng lồ này thịnh hành từ thời Ngũ Đại. Có một số giai thoại khác nhau kể về sự tích hình thành 500 La hán. Có kinh chép rằng đó là 500 vị đệ tử theo chân Phật Thích Ca lúc ngài còn tại thế. Phiên bản khác lại chép rằng Phật Thích Ca khi thuyết pháp ở thành Bà La Nại thì có 500 con chim yến từ không trung bay đến, nghe pháp âm vi diệu của Phật bèn sinh lòng hoan hỉ sà xuống. Một kẻ thợ săn quăng lưới bắt chim, đúng lúc đó bắt được cả 500 con và sát hại hết thảy. Nhưng nhờ cơ duyên nghe được Phật pháp mà sau khi chết chúng được đầu sinh lên trời thành 500 vị La hán được dân chúng phụng thờ.
Trong bài viết này này, HSNV xin giới thiệu về danh sách Thập Bát La hán
Tọa Lộc La Hán
– Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều rất chính xác.
Tôn Giả Tân-đầu-lô là một vị La hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp ngài là vị La hán thứ nhất, thường cùng 1.000 vị La hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
Khánh Hỷ La Hán
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha (Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen ngài là vị La hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia ngài là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, trong tâm ngài chưa bao giờ phát khởi một ý nghĩ xấu. Sau khi xuất gia, ngài càng nỗ lực tu tập, nhờ thiện căn sâu dày, ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
Ngài thường đi du hóa khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng sinh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả khổ địa ngục, nên khi thuyết pháp ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện ác, giúp chúng sinh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn trang, thấy một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ. Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành tựu đạo nghiệp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 2, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la (Kashmir).
Cử Bát La Hán
Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà (Kanakabharadvāja). Ngài là vị đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.
Quốc vương nước Tăng-già-la không tin Phật pháp, Tôn giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ. Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ bạch y. Đây là do phép thần thông của tôn giả. Nghe lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ tát Quán Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài Huyền Trang khi sang Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật, thỉnh mấy ngàn vị hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng nhiên có hai vị hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn Giả chứng minh trai phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:
– Này các vị, 16 La-hán chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật tử chí thành đời sau.
Tôn giả Ca-nặc-ca thường mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La hán Cử Bát. Theo Pháp Trụ Ký ngài là vị La hán thứ 3, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu
Thác Tháp La hán
Tên của ngài là Tô-tần-đà (Subinda). Thường ngày, ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng thường kiệm lời. Tôn giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, ngài chỉ ở yên nơi tinh xá đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình cách nói chuyện của ngài không hay, đức Phật biết được an ủi: “Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù không nói câu nào cũng thành tựu sự giải thoát”.
Đúng thật là Tôn Giả hiếm khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên chứng quả A-la-hán rất sớm.
Đương thời vua nước Án-đạt-la muốn xây dựng một tịnh xá u tịch tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra những tảng đá lớn. Tôn giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến vô số đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo một pho tượng thật lớn bằng vàng tôn trí trong tịnh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn Giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng đều biến thành vàng. Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm lễ.
500 năm sau khi Phật diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá lợi Phật, giữ tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế ngài được gọi là La-hán Thác Tháp (nâng tháp).
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Tô-tần-đà là vị La-hán thứ 4, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc Câu Lô Châu
Tĩnh Tọa La Hán
Sau này quả nhiên Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì sinh vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua Ma-kiệt-đà:
– Đó chính là pháp tu không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con người chưa được diệt trừ hết.
Vua nghe tôn giả giải thích mới hiểu được Phật pháp chân chính đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Phật.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La hán thứ 5, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.
Quá Giang La Hán
Tôn Giả cũng thường dong thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được mang tên La hán Quá Giang.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 6, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại Đam-một-la-châu.
Kỵ Tượng La Hán
Tên của ngài là Ca-lý-ca (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi. Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo ngài nên ở tại quê hương Tích Lan (Sri Lanka) để ủng hộ Phật pháp.
Phật đến Tích Lan thuyết kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo, vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật Túc Sơn, và bảo Tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn giả hóa thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân Phật.
Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt, thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm đến ngày 15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích rầm rộ không ngớt.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Ca-lý-ca là vị La-hán thứ 7, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
Tiếu Sư La Hán
Tên của ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn 10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La hán. Lại có một con sư tử thường quấn quýt bên ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La hán Tiếu Sư (đùa sư tử).
Về phía Bắc tịnh xá Trúc Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được nhiều bệnh, đức Phật vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn giả bảo mọi người rằng:
– Nước ao cạn khô vì mọi người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy, một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo đảm nước trong ao sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi người nghe Tôn giả nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn Giả nên phát khởi lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán trụ ở châu Bát-thích-noa.
Khai Tâm La Hán
Ngài tên là Thú-bác-ca (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thật tâm khâm phục và xin quy y làm đệ tử.
Sau khi xuất gia, trải qua bảy năm khổ hạnh, ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ nói:
– Nếu Phật pháp là chân lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây.
Nói xong, ngài cắm cây sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng Lâm. Quần chúng Phật Tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, Tôn Giả Thú-bác-ca liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân chúng vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn giả. Những bức tượng thường khắc họa hình ảnh ngài vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm Phật, nên gọi là La hán Khai Tâm.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài Thú-bác-ca là vị La-hán thứ 9, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương Túy
Thám Thủ La Hán
Ngài tên là Bán-thác-ca (Panthaka). Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong tục Ấn Độ.
Bán-thác-ca lớn lên là một thanh niên tri thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp, bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập tăng đoàn, trở thành một vị tỳ kheo tinh tấn dũng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc, thời gian đầu thấy em mình quá chậm cháp ngốc nghếch nên ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận ghét.
Về sau, khi Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là người mừng hơn ai hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi khen. Đức Phật dạy: “Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng dương Phật pháp”. Hai tôn giả vâng lời Phật nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sinh. Những bức tượng thường khắc họa hình ảnh ngài đưa hai tay lên rất sảng khoái của một vị La-hán sau cơn thiền định.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả Bán-thác-ca là vị La-hán thứ 10, ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù-châu.
Trầm Tư La Hán
Ngài chính là La-hầu-la (Rāhula), con trai của Phật Thích Ca và nàng Gia Du Đà La (Yasodhara) trước khi ngài xuất gia. Sau khi đạt thánh quả, Đức Phật trở về đón mẹ con La Hầu La cùng gia nhập tăng đoàn. La Hầu La theo Phật xuất gia khi mới 10 tuổi, bấy giờ còn nghịch ngợm, vẫn còn tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người. Về sau nhờ sự giáo dưỡng của Phật, ngài bỏ thói hư tật xấu, nỗ lực tu tập để chứng thánh quả.
Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm ở, ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá trúng đầu chảy máu, ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín chủ cúng cho ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem cúng người khác, ngài cũng bình thản dọn ra khỏi phòng.
Sau khi chứng quả A-la-hán, ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng ngài là Mật Hạnh đệ nhất và chọn ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tính lặng lẽ, ngài được tặng danh hiệu La hán Trầm Tư.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La-hán thứ 11, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù châu.
Khoái Nhĩ La Hán
Ngài tên là Na-già-tê-na (Nāgasena) hay còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La hán nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời của ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị, nhà vua vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng Tôn Giả Na Tiên là bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay. Nhờ sự chỉ dạy của Tôn Giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.
Có chỗ nói ngài Na Tiên chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tính nghe hiển lộ. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, âm thanh đi vào tai rồi dùng âm thanh đi ra từ lưỡi để thuyết pháp giáo hóa, đó là ý nghĩa hình tượng của Tôn giả Na Tiên.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài cũng là vị La-hán thứ 12, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi Bán-độ-ba.
Bố Đại La Hán
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà (Angada). Theo truyền thuyết, ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người. Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn.
Nhân có một người nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn nguyện, cung thỉnh một vị hiền thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát Di Lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả.
La-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại, các ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La hán Bố Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình rất giống hiện thân của Bồ tát Di Lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là vị La hán thứ 13, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng Hiếp
Ba Tiêu La Hán
Tên của ngài là Phạt-na-bà-tư (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ ngài vào rừng ngắm cảnh thì mưa to dữ dội và bà hạ sanh ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia theo Phật, ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La-hán Ba Tiêu. Ngài thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả nửa tháng.
Theo lời phó chúc của đức Phật, Tôn giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn giả hóa làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa thành. Từ đó, vua trở thành bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại thành Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của Tôn giả Phạt-na-bà-tư.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn Giả Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ 14, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong núi Khả Trụ
Trường Mi La Hán
Tên của ngài là A-thị-đa (Ajita) thuộc dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi ngài mới sanh ra đã có lông mày dài rủ xuống (trường mi), điều báo hiệu kiếp trước ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật xuất gia, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.
Ngài cũng là một trong những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y trị bệnh và thỉnh giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của thái tử không cần uống thuốc cũng khỏi”. Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe chúc mừng thái tử hết bệnh. Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà Phật pháp hưng thịnh ở nước này.
Pháp Trụ Ký xếp ngài là vị La-hán thứ 15, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu Sơn.
Kháng Môn La Hán
Tên của ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay Châu-lợi-bàn-đặc (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như một tấm gương cần cù nhẫn nại. Ngài chính là em trai của Bán-thác-ca (La hán Thám Thủ). Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia ngài không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau được sự chỉ dạy của Thế Tôn, ngài thực hành pháp môn quét rác với cây chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, ngài đã chứng Thánh quả.
Một hôm đại thần Kỳ-bà thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tịnh xá xem có sót người nào. Tôn giả về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa Thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn. Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò đùa của em mình, Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của Châu-lợi-bàn-đặc.
Truyền thuyết kể rằng, khi đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm sập cánh cửa cũ hư. Phật biết chuyện, trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những chiếc chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn giả, và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả là vị La-hán thứ 16, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì Trục
Hàng Long La Hán
Ngài tên là Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra), tiếng Trung dịch là Khánh Hữu, ra đời sau khi Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.
Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của ngài được ghi chép lại thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không trung hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chân hỏa tam muội thiêu thân. Xá lợi ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng dường.
Tuy đã thiêu thân, nhưng Tôn giả không rời nước Sư Tử, ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn Giả xuất định, Ngài ôm bát xuống núi khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó ngài thường xuất hiện khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh. Mọi người tin rằng ngài vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng hóa.
Tôn Giả Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài chép lại Pháp Trụ Ký
Phục Hổ La Hán
Tên của ngài là Đạt-ma-đa-la (Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa, rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ thấy.
Một hôm trong khi đang chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay, vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng. Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để được trở thành La-hán. Ngài chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng quả.
Thành một A-la-hán thần thông tự tại, ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả 3 lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu cũng dẫn theo. Bên cạnh hình tượng ngài người ta vẽ thêm một con hổ, nên người đời gọi là La hán Phục Hổ.
La hán Hàng Long và La hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục La hán, trở thành La hán thứ 17 và 18.
Trên đây là toàn bộ bài viết giải đáp thắc mắc “Thập Bát La Hán bao gồm những ai“. Nếu có ý kiến hoặc bất kỳ đóng góp nào hãy để lại comment ở dưới bài viết bạn nhé.